MẸ TÊRÊSA: TIỂU SỬ VÀ
CHỨNG TỪ
* TRẦN
DUY NHIÊN
"Theo huyết thống, tôi là người
Anbani. Theo quốc tịch, tôi là người Ấn Độ. Theo đức tin, tôi là một nữ tu công
giáo. Theo ơn gọi, tôi thuộc về thế gian. Theo con tim, tôi hoàn toàn thuộc về
Trái Tim Chúa Giêsu" (Mẹ Têrêxa):
Với dáng người nhỏ bé, nhưng với một đức
tin sắt đá, Mẹ Têrêxa thành Calcutta được giao phó
sứ mạng công bố tình yêu
vô bờ bến của Thiên Chúa đối với nhân loại, đặc biệt
đối với những người bần cùng nhất. "Thiên Chúa vẫn mãi yêu thương thế gian
và Người sai chị em chúng ta ra đi để biểu lộ tình yêu và lòng thương cảm của
Người đối với người nghèo". Mẹ có một tâm hồn tràn đầy ánh sáng Chúa Kitô,
một tâm hồn bùng cháy tình yêu đối với Ngài và bị thôi thúc bởi một mong ước
duy nhất: "xoa dịu cơn khát của Chúa: khát tình yêu và khát các linh
hồn".
Agnes Gonxha Bojaxhiu sinh ngày 26 tháng
08 năm 1910, và chịu phép rửa ngay hôm sau, tại Skopje, Macedonia. Gia đình cô
thuộc cộng đồng người Anbani. Đây là một gia đình công giáo, mặc dù đa số người
Anbani ở đấy theo Hồi Giáo. Thời bấy giờ, Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ cai trị đất nước.
Cha cô, ông Nikola, là một doanh nhân. Ông làm chủ một công ty và một cửa hàng
thực phẩm. Ông thường du hành đó đây, biết nhiều thứ tiếng và rất quan tâm đến
chính trị. Ông là một thành viên của Hội Đồng người Anbani. Cùng với vợ mình là
bà Drana, ông đã dạy cho Agnes những bài học bác ái đầu tiên.
Khi Agnes lên 9, năm 1919, cha cô qua đời
một cách đột ngột. Bà Drana phải một mình bươn chải hầu nuôi dạy ba người con
là Aga (1904), Lazar (1907) và Agnes Gonxha (1910). Để sinh sống, bà lao động
vất vả qua nghề thêu may. Dù vậy, bà vẫn dành thì giờ để giáo dục con cái. Gia
đình cầu nguyện mỗi tối, đi nhà thờ hằng ngày, lần chuổi Mân Côi mỗi ngày trong
suốt tháng Năm và chuyên cần tham dự các lễ kính Đức Mẹ. Họ cũng luôn quan tâm
giúp đỡ những người nghèo khổ và túng thiếu đến gõ cửa nhà họ. Trong các kỳ
nghỉ, gia đình có thói quen đến tĩnh tâm tại một nơi hành hương kính Đức Mẹ, ở
Letnice.
Agnes rất thích đi nhà thờ, cô cũng thích
đọc sách, cầu nguyện và ca hát. Mẹ cô tình nguyện chăm sóc một phụ nữ nghiện
rượu ở gần đấy. Mỗi ngày hai lần, bà đến rửa ráy và cho người phụ nữ ấy ăn,
đồng thời bà cũng chăm sóc một bà góa có 6 con. Những ngày bà không đi được,
thì Agnes thay bà đi làm các việc bác ái đó. Khi bà góa qua đời, những người
con của bà đến sống với bà Drana như con ruột của mình.
Ơn gọi
Những năm
trung học, cô Agnes dùng phần lớn thời gian để hoạt động trong hội Đạo Binh Đức
Mẹ (Legio Mariae). Vì giỏi ngoại ngữ, cô giúp một linh mục gặp khó khăn trong
ngôn ngữ, cô dạy giáo lý và đọc rất nhiều sách về các nhà thừa sai Slovenia và
Croatia ở Ấn Độ. Khi lên 12, lần đầu tiên cô mong muốn dâng đời mình để làm
việc Chúa, hiến trọn đời mình cho Chúa để Người quyết định. Nhưng cô phải làm
sao để biết chắc chắn là Chúa có gọi cô hay không?
Cô cầu nguyện nhiều rồi tâm sự với các chị
và mẹ mình. Cô cũng trình bày với vị linh mục giải tội: "Làm sao con biết
chắc?". Cha trả lời: "Căn cứ trên NIỀM VUI. Nếu con cảm thấy thực sự
hớn hở vui mừng với ý tưởng rằng Chúa có thể gọi con phục vụ Người và tha nhân,
thì đấy là bằng chứng cho thấy rằng con có ơn gọi". Và cha nói thêm:
"Niềm vui sâu xa mà con cảm nhận là la bàn để chỉ cho con biết hướng đi
của đời mình".
Năm 18 tuổi là năm trọng đại. Cô quyết
định. Hai năm trước đó, cô đã đến tĩnh tâm nhiều lần tại Letnice và nhận ra rõ
ràng là cô sẽ phải đi truyền giáo ở Ấn Độ. Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
năm 1928, cô đến Letnice cầu nguyện xin Đức Mẹ chúc lành trước khi ra đi. Cô
chuẩn bị gia nhập dòng Đức Mẹ Lorette, một hội dòng đang hoạt động tích cực tại
Ấn Độ.
Ngày 25 tháng 09, cô lên đường. Cả cộng
đồng tiễn cô ra ga: nào bạn hữu, nào láng giềng già trẻ, và dĩ nhiên cả Mẹ và bà
chị Aga. Mọi người đều khóc.
Cô đi qua Zagreb, Áo, Thụy Sĩ, Pháp và đến
Luân Đôn, rồi từ đấy vào một tu viện gần Dublin là nhà mẹ của Hội Dòng Đức Mẹ
Lorette. Tại đấy, cô học nói tiếng Anh và sống nếp sống nữ tu. Ngày mặc áo
dòng, cô chọn tên là Têrêxa, để tưởng nhớ chị thánh Têrêxa Hài Đồng ở Lisieux,
nơi mà cô dừng chân trên đường đến Luân Đôn. Cùng thời gian này cô làm các thủ
tục giấy tờ và năm 1928 cô khởi sự cuộc hành trình đầu tiên đến với Ấn Độ: đất
nước ước mơ của cô! Cuộc hành trình này thật gian nan. Có vài chị em nữ tu đi
cùng tàu với cô nhưng phần đông hành khách thì theo Anh giáo. Suốt nhiều tuần
lễ, họ không được dự lễ và rước lễ, kể cả ngày Giáng Sinh. Tuy nhiên, họ cũng
làm một máng cỏ, lần hạt và hát thánh ca Giáng Sinh.
Đầu năm 1929 họ đến Colombo ,
rồi đến Madras và
cuối cùng là Calcutta .
Họ tiếp tục đi đến Darjeeling ,
dưới chân dãy Hy mã lạp sơn, nơi mà người nữ tu trẻ sẽ hoàn tất thời gian huấn
luyện. Ngày 23 tháng 05 năm 1929, chị Têrêxa vào tập viện và hai năm sau chị
khấn lần đầu. Ngay sau đó, chị được chuyển đến Bengali để giúp đỡ các chị trong
một bệnh viện nhỏ hầu chăm sóc các bà mẹ đau yếu, đói khát và không nơi nương
tựa. Chị bị đánh động trước nỗi khốn cùng vô biên tại nơi này.
Nữ Tu và Giáo viên
Sau đó, chị được gởi đến Calcutta để học sư phạm. Khi nào có thể, chị
đều đi giúp chăm sóc bệnh nhân. Khi ra trường, chị trở thành giáo viên và mỗi
ngày phải đi xuyên qua thành phố. Công việc đầu tiên của chị là lau phòng học.
Chẳng bao lâu, các em bé yêu mến cô giáo vì sự nhiệt tình và lòng trìu mến của
cô, nên số học sinh lên đến ba trăm em. Ở một khu khác trong thành phố, còn 100
em nữa. Chị nhìn thấy nơi các em ở và đồ các em ăn. Cảm được sự chăm sóc và
tình yêu của chị, các em gọi chị là ‘ma’ (mẹ). Những ngày chúa nhật, chị đi
thăm viếng gia đình các em.
Ngày 24 tháng 05 năm 1937, chị khấn trọn
đời ở Darjeeling và trở thành, như lời chị nói, “hiền
thê của Chúa Giêsu cho đến đời đời”. Chị được cử làm hiệu trưởng một trường phổ
thông cơ sở tại trung tâm Calcutta ,
dành cho nữ sinh Bengali. Đôi khi chị cũng đích thân dạy sử địa. Cạnh trường là
một trong những khu ổ chuột lớn nhất Calcutta .
Chị Têrêxa không thể nhắm mắt làm ngơ được: Ai chăm sóc cho những người nghèo
sống lang thang trên đường phố đây? Tinh thần bác ái toát ra từ những bức thư
của mẹ chị nhắc lại tiếng gọi căn bản: hãy chăm sóc người nghèo.
Hội đoàn Legio Mariae cũng hoạt động trong
trường này. Cùng với các nữ sinh, chị Têrêxa thường đi thăm bệnh viện, khu ổ
chuột, người nghèo. Họ không chỉ cầu nguyện suông. Họ cũng nghiêm túc trao đổi
về những gì mình thấy và làm. Cha Henry, một linh mục dòng Tên người Bỉ, là vị
linh hướng của chị; ngài gợi ý nhiều điều trong công tác này. Ngài hướng dẫn
chị Têrêxa trong nhiều năm. Qua các gợi ý của ngài, chị càng ngày càng mong
muốn phục vụ người nghèo, nhưng bằng cách nào đây?
‘Ơn gọi trong ơn gọi’
Với tất cả những thao thức ấy, chị đi tĩnh
tâm ngày 10 tháng 09 tại Darjeering. Sau này chị nói: "đấy là chuyến đi
quan trọng nhất trong đời tôi". Đấy chính là nơi mà chị thực sự nghe được
tiếng Chúa: "Hãy đến làm ánh sáng cho Thầy”". Sứ điệp của Người rất
rõ ràng: chị phải rời tu viện để giúp đỡ những kẻ khốn khổ nhất và cùng sống
với họ. "Đấy là một mệnh lệnh, một bổn phận, một xác tin tuyệt đối. Tôi
biết mình phải làm gì, nhưng không biết phải làm thế nào". Ngày 10 tháng
09 là một ngày quan trọng đến nỗi Hội Dòng gọi ngày này là ‘ngày linh hứng’
(inspiration day).
Chị Têrêxa cầu nguyện, trình bày cho vài
chị khác, tham khảo ý kiến mẹ bề trên, và mẹ bảo chị đến gặp đức tổng giám mục Calcutta ,
Đức Cha Perrier. Chị giải thích cho ngài về ơn gọi của mình, nhưng đức cha
không cho phép. Ngài đã trao đổi với các cha dòng Tên Henry và Celeste Van
Exem, là những vị biết rõ chị Têrêxa. Các ngài xem xét mọi mặt vấn đề: Ấn Độ
sắp được độc lập và chị Têrêxa lại là một người Âu! E rằng chị sẽ gặp những
nguy hiểm về chính trị và nhiều vấn đề khác xuất phát từ việc phân biệt sắc
tộc. Liệu Rôma có phê chuẩn quyết định này chăng? Đức cha khuyên chị cầu nguyện
một năm nữa trước khi thực hiện quyết định này, nếu không thì nên gia nhập dòng
các Nữ Tử thánh Anna, những nữ tu mặc sari xanh đang hoạt động cho người nghèo.
Chị Têrêxa nghĩ rằng đấy không phải là con đường thích hợp cho mình. Chị muốn
sống cùng với người nghèo. Một năm sau, khi chị Têrêxa trình lên ý định mình,
đức tổng giám mục muốn cho phép, nhưng ngài bảo tốt hơn là chị hãy xin phép
Rôma và Mẹ bề trên tổng quyền của chị ở Dublin. Chị lại phải chờ đợi một thời
gian khá lâu để nhận được quyết định từ trung ương.
Quyết định
Tháng 08 năm 1948, chị Têrêxa được phép
rời cộng đoàn Lorette với điều kiện là tiếp tục tuân giữ các lời khấn khó
nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Chị chia tay với chị em mình năm 38 tuổi, rời
tu phục dòng Lorette để mặc lấy chiếc sari rẻ tiền màu trắng viền xanh. Trước
hết, chị đến Patna để theo học một khóa huấn luyện y tá
cùng với các nữ tu tại đấy. Chị thấy rõ ràng là chị chỉ có thể giúp đỡ người
nghèo trong các căn nhà bẩn thỉu bệnh hoạn của họ nếu chị biết cách phòng bệnh
và chữa bệnh. Kiến thức y khoa là điều kiện không thể thiếu được hầu chu toàn
ơn gọi mới của mình.
Vị bề trên ở Patna ,
một bác sĩ, đã cho chị một lời khuyên khôn ngoan khi chị tỏ ý muốn ra sống giữa
những người nghèo và chăm sóc họ. Chị bảo rằng chị muốn sống chỉ bằng cơm với
muối, giống như người nghèo, và vị bề trên đáp lại rằng đấy là cách hay nhất để
cản trở chị khỏi phải đi theo ơn gọi của chị: nếp sống mới đòi hỏi ở chị một
sức khoẻ thật vững và thật tốt.
Sau khi trở về Calcutta ,
chị Têrêxa đến với các khu ổ chuột và đường phố, thăm viếng và giúp đỡ người
nghèo. Toàn bộ tài sản của chị vẻn vẹn là một cục xà phòng và năm rupi (một
đôla = 45 rupi; và 5 rupi = dưới 2000 VNĐ). Chị giúp tắm các em bé và rửa các
vết thương. Người nghèo rất ngạc nhiên: Cái bà người Âu mặc chiếc sari nghèo
nàn này là ai vậy? Mà bà nói thông thạo tiếng Bengali! Bà lại đến giúp họ rửa
ráy, lau chùi và chăm sóc họ nữa chứ! Thế rồi chị bắt đầu dạy các em bé nghèo
học chữ, học cách rửa ráy và giữ vệ sinh. Sau đấy chị mướn được một phòng nhỏ
để làm lớp học.
Phần chị, chị vẫn tạm trú tại nhà các Chị
Em Người Nghèo. Chúa là nơi nương tựa của chị để có được những sự trợ giúp vật
chất. Và Người luôn có mặt: lúc nào chị cũng tìm ra thuốc men, quần áo, thức ăn
và chỗ ở để đón người nghèo và chăm sóc họ. Vào giữa trưa, các em bé được uống
một ly sữa và nhận một miếng xà phòng, nhưng đồng thời các em cũng được nghe
nói về Chúa, Đấng Tình Yêu, và - ngược với cái thực trạng rành rành trước mắt
các em - Người yêu thương các em, thực sự yêu thương các em.
Một thời điểm cảm động
Một hôm, một thiếu nữ Bengali, xuất
thân từ một gia đình khá giả và là cựu học sinh của Mẹ Têrêxa, muốn đến ở với
Mẹ mà giúp một tay. Đây là một thời điểm cảm động. Nhưng Mẹ Têrêxa rất thực tế:
Mẹ nói về sự nghèo khó toàn diện, về những khía cạnh khó chịu của công việc Mẹ
làm. Mẹ đề nghị thiếu nữ chờ đợi một thời gian nữa.
Ngày 19 tháng 03 năm 1949, thiếu nữ ấy trở
lại trong một chiếc áo nghèo nàn và không mang trên người một món nữ trang nào.
Cô đã quyết định. Cô là người đầu tiên gia nhập cộng đoàn của Mẹ Têrêxa và lấy
tên khai sinh của Mẹ là Agnes. Những thiếu nữ khác nối tiếp cô: vào tháng 05
cộng đoàn có ba người, tháng 11 là năm người, năm sau đó là bảy người. Mẹ
Têrêxa thiết tha cầu nguyện để có được nhiều ơn gọi hơn nữa cho Chúa Giêsu và
Đức Mẹ. Có quá nhiều việc phải làm. Các chị em thức dậy thật sớm, cầu nguyện
lâu giờ, dự thánh lễ để kín múc sức mạnh cho đời sống thiêng liêng hầu thực thi
những công việc phục vụ người nghèo. Tạ ơn Chúa, có một ông tên là Gomes đã
dâng tặng tầng cao nhất của căn nhà mình cho cộng đoàn Mẹ Têrêxa. Đây cũng là
năm mà Mẹ Têrêxa lấy quốc tịch Ấn Độ.
Mẹ Têrêxa nhìn cộng đoàn lớn lên và biết
rằng Mẹ có thể nghiêm túc nghĩ đến việc sáng lập một hội dòng. Muốn xây dựng
hiến pháp đầu tiên, Mẹ tham khảo ý kiến của hai người đã từng giúp Mẹ trước
đây: các cha dòng Tên Julien Henry và Celest Van Exem. Vị linh mục đọc lại lần
cuối là cha De Gheldere. Giờ đây "hiến pháp của Hội Dòng Thừa Sai Bác
Ái" có thể trình lên đức tổng giám mục, và ngài gởi về Rôma để xin phê
chuẩn.
Đầu mùa thu, sắc lệnh phê chuẩn của Đức
Thánh Cha đến, và ngày 7 tháng 10 năm 1950, lễ Mân Côi, nghi thức khánh thành
diễn ra trong nhà nguyện của chị em. Đức tổng giám mục cử hành thánh lễ và cha
Van Exem đọc sắc lệnh thành lập. Vào lúc ấy, có 12 chị em. Không đầy 5 năm sau,
cộng đoàn được nâng lên thành hội dòng Tòa Thánh, có nghĩa là trực thuộc Đức
Thánh Cha.
Những lãnh vực khác
Muốn đáp ứng trọn vẹn hơn các nhu cầu vật
chất và thiêng liêng của người nghèo, Mẹ Têrêxa sáng lập:
· Năm
1963: Tu hội Anh Em Thừa Sai Bác Ái.
· Năm
1976: Nhánh nữ tu chiêm niệm.
· Năm
1979, Các Nam tu sĩ chiêm niệm.
· Năm
1984, Hội linh mục Thừa Sai Bác Ái.
Tuy nhiên, thao thức của Mẹ không dừng lại
nơi những người có ơn gọi tu trì mà thôi. Mẹ thiết lập hội:
· Những
Cộng Tác Viên với Mẹ Têrêxa và những Cộng Tác Viên Bệnh Tật Và Đau Khổ, gồm
những người thuộc nhiều quốc tịch khác nhau mà Mẹ chia sẻ tinh thần cầu nguyện,
đơn sơ, hy sinh và công tác tông đồ qua những việc làm hèn mọn vì tình yêu.
Tinh thần này cũng thôi thúc Mẹ thiết lập hội:
· Giáo
Dân Thừa Sai Bác Ái.
· Để
đáp lại yêu cầu của nhiều linh mục, năm 1981, Mẹ Têrêxa khởi xướng phong trào
Corpus Christi dành những linh mục nào muốn chia sẻ linh đạo và đặc sủng của Mẹ.
Trong những năm lớn mạnh đó, thế giới bắt
đầu chú ý đến Mẹ và các công trình mà Mẹ đã khởi xướng. Mẹ nhận được nhiều giải
thưởng:
· Giải
Padmashri của Ấn Độ, năm 1962.
· Giải
Hoà Bình của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, năm 1971.
· Giải
Nêru vì có công thăng tiến nền hòa bình và sự thông cảm trên thế giới, năm 1972.
· Giải
Nobel Hòa Bình, năm 1979; trong khi đó, các phương tiện truyền thông càng ngày
càng ca tụng Mẹ hết lời qua các công việc Mẹ làm. Mẹ đón nhận tất cả ‘vì vinh
danh Thiên Chúa và nhân danh người nghèo’
Chứng từ của một cuộc đời.
Toàn bộ cuộc đời và công trình của Mẹ
Têrêxa là một chứng từ cho niềm vui trong yêu thương, cho sự cao cả và phẩm giá
của mỗi một con người, cho giá trị của từng việc nhỏ nhất được thực thi với đức
tin và tình yêu, và trên hết, cho sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa.
Nhưng có một khía cạnh anh dũng khác của
vĩ nhân này mà ta chỉ biết được sau khi Mẹ qua đời. Đây là một điều Mẹ dấu kín
đối với mọi người, kể cả những thân hữu gần gũi nhất với Mẹ: Trong cuộc sống
nội tâm, Mẹ có một cảm nghiệm sâu lắng, đau đớn và thường xuyên rằng Mẹ ở xa
cách Chúa, thậm chí bị Người ruồng bỏ, và vì thế càng ngày Mẹ càng khao khát
được Chúa yêu thương nhiều hơn. Mẹ gọi cái cảm nghiệm nội tâm ấy là ‘bóng tối’.
Cái ‘đêm đen cay đắng’ này khởi sự từ ngày Mẹ bắt đầu công việc phục vụ người
nghèo và tiếp tục mãi cho đến cuối đời, khiến Mẹ ngày càng kết hiệp mật thiết
hơn với Chúa. Qua cái tối tăm đó, Mẹ tham dự một cách huyền nhiệm vào cơn khát
cùng cực và đau đớn của Chúa Giêsu và chia sẻ tự thâm sâu sự khốn cùng của
người nghèo.
Trong những năm cuối đời, mặc cho sức khoẻ
càng ngày càng giảm sút, Mẹ vẫn tiếp tục điều hành Hội Dòng và đáp ứng các nhu
cầu của người nghèo và của Giáo Hội.
· Năm
1997, số nữ tu của Mẹ Têrêxa là 4000 chị, hoạt động tại 610 nhà, trong 123 quốc
gia trên thế giới.
· Tháng
03 năm 1997, Mẹ chúc phúc cho vị bề trên tổng quyền mới của Hội Dòng Thừa Sai
Bác Ái (chị Nirmala Joshi), rồi thực hiện một chuyến du hành ở nước ngoài.
· Sau
khi yết kiến Đức Thánh Cha lần chót, Mẹ về lại Calcutta ,
dành những ngày cuối đời để tiếp khách và dạy dỗ các nữ tu con cái mình.
· Ngày
05 tháng 09 là ngày cuối cùng trong cuộc đời trần thế của Mẹ. Mẹ được tiễn đưa
về vĩnh cửu theo nghi lễ quốc táng của Ấn Độ và thi hài Mẹ được chôn cất tại
nhà mẹ của hội dòng Thừa Sai Bác Ái. Mộ của Mẹ trở thành nơi hành hương cho mọi
người, giàu cũng như nghèo.
Không đầy hai năm sau ngày qua đời, do sự
thánh thiện mà mọi người đã đồng thanh ca ngợi và những báo cáo về các ơn
thiêng nhận được qua Mẹ, nên Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho phép tiến
hành xem xét hồ sơ phong thánh cho Mẹ. Ngày 20 tháng 12 năm 2002, ngài phê
chuẩn sắc lệnh công nhận nhân đức anh hùng và các phép lạ của Mẹ.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được nâng
lên hàng chân phước (lễ kính vào ngày 05 tháng 9). Mẹ là người được phong chân
phước nhanh nhất trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay: chỉ 6 năm sau ngày
qua đời. Trước Mẹ, thánh Gioan Bosco và thánh Maximilian Kolbe được phong chân
phước 30 năm sau ngày qua đời và là những người được phong chân phước nhanh
nhất.
Chân phước Têrêxa thành Calcutta - một
người của toàn thể nhân loại, mang dòng máu Anbani, có quốc tịch Ấn độ và công
dân danh dự của Hoa kỳ, nhưng lại xóa mình đến nỗi ít ai còn nhớ đến cái tên
khai sinh Agnes Gonxha Bojaxhiu - mãi mãi là hình ảnh của một Kitô hữu có một
đức tin không hề lay chuyển, một đức cậy bất chấp phong ba và một đức ái vượt
mọi biên thùy. Lời đáp trả trước tiếng gọi của Chúa Giêsu "Hãy đến làm ánh
sáng cho Thầy" đã biến người thành một nhà Thừa Sai Bác Ái, một ‘người mẹ
của kẻ nghèo’, một biểu tượng cho lòng thương cảm của Thiên Chúa đối với con
người và một bằng chứng sống động cho thấy rằng Chúa Giêsu từng ngày khắc khoải
chờ đợi tình yêu của mỗi một linh hồn.
T.D.N
----------------
/ Tổng hợp theo tài liệu của Mạng Lưới Vatican
và Hội Dòng Thừa Sai Bác Ái. /
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét